Cập nhật Ngành Ngân Hàng: Đại hội cổ đông & cập nhật nhanh KQKD Q1/2022
Mùa ĐHCĐ đã kết thúc, hầu hết các ngân hàng mà chúng tôi nghiên cứu đều có quan điểm tích cực cho cả năm 2022. Kế hoạch tăng trưởng LNTT bình quân ở mức + 31% so với cùng kỳ, trong khi mục tiêu tăng trưởng tín dụng phụ thuộc vào hạn mức do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) phê duyệt như thường lệ. Tuy nhiên, VCB và MBB có thể có lợi thế về tăng trưởng tín dụng trong năm 2022, do hai ngân hàng này có kế hoạch tham gia hỗ trợ tái cơ cấu các ngân hàng “0 đồng”. KQKD Q1/2022 hầu hết đều phù hợp hoặc vượt kế hoạch đặt ra tại ĐHCĐ, ngoại trừ trường hợp của OCB.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là kết quả này chỉ phản ánh hoạt động trong Q1 và chưa phản ánh đầy đủ tác động của những động thái siết hoạt động cho vay bất động sản và trái phiếu doanh nghiệp gần đây. Chúng tôi cho rằng rủi ro trong ngắn hạn vẫn còn cho đến khi tình hình thị trường trái phiếu doanh nghiệp trở nên rõ ràng hơn. Trong bối cảnh hiện nay, chúng tôi ưu tiên các cổ phiếu có chất lượng tài sản tốt với tỷ trọng cho vay bất động sản và/hoặc đầu tư trái phiếu doanh nghiệp ở mức thấp (như ACB và VCB).
Tóm tắt ĐHCĐ năm 2022
Kế hoạch LNTT năm 2022 ở hầu hết các ngân hàng khá khả quan (trung bình +31% so với cùng kỳ) bất chấp xu hướng tăng của lãi suất huy động và việc siết trái phiếu doanh nghiệp và thị trường bất động sản của Chính phủ.
• CTG, VCB và TCB đặt kế hoạch tăng trưởng LNTT thận trọng nhất – tăng trưởng dưới 20% so với cùng kỳ. Chúng tôi cho rằng TCB đã tính đến tác động của thị trường TPDN kém sôi động hơn trong năm 2022 vào kế hoạch. Còn đối với CTG và VCB, việc đặt kế hoạch thận trọng là thông lệ thường thấy trong những năm gần đây. Theo quan điểm của chúng tôi, các ngân hàng này có khả năng cao sẽ hoàn thành vượt mức kế hoạch đặt ra tại ĐHCĐ.
• Trong khi đó, VPB, SHB và BID đặt kế hoạch tăng trưởng mạnh lần lượt đạt 51% đến 103% so với cùng kỳ nhờ phí bancassurance trả trước (đối với VPB) và áp lực dự phòng giảm mạnh (đối với BID & SHB).
Điểm đáng chú ý nhất trong mùa ĐHCĐ năm nay là tờ trình về việc nhận chuyển giao bắt buộc một tổ chức tín dụng của MBB và VCB, theo đó hai ngân hàng này cũng sẽ có một số các lợi ích nhất định ví dụ như tăng trưởng tín dụng cao hơn. VPB và HDB cũng có tờ trình ủy quyền cho HĐQT xem xét tham gia chương trình tái cơ cấu NHTM theo chủ Trương của NHNN. Tuy nhiên, thông tin chi tiết vẫn chưa được công bố.
Do hầu hết các ngân hàng đã gần chạm hạn mức tín dụng được NHNN cấp ban đầu vào cuối Q1/2022, VCB và MBB có thể sẽ có một số lợi thế về tăng trưởng tín dụng so với các ngân hàng khác trong vài tháng tới theo quan điểm của chúng tôi. Kế hoạch tăng vốn điều lệ được trình tại hầu hết các ngân hàng, ngoại trừ STB và TCB. Việc tăng vốn điều lệ sẽ được hoàn thành thông qua việc chi trả cổ tức bằng cổ phiếu (dao động từ 11,9% đến 50,0%) và kế hoạch phát hành cổ phiếu mới (BID, LPB, VPB, SHB và MBB).
Các điểm đáng chú ý khác như một số ngân hàng đã bỏ phiếu bầu thành viên HĐQT mới cho nhiệm kỳ 2022-2026 sắp tới.
KQKD Q1/2022
Nhìn chung, trong Q1/2022 các ngân hàng có mức tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ và duy trì được xu hướng tăng trưởng lợi nhuận ổn định (ngoại trừ CTG và OCB). Điều này không phản ánh tác động của việc siết hoạt động cho vay đối với lĩnh vực bất động sản và thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Dưới đây là những điểm chính rút ra từ báo cáo KQKD Q1/2022:
• Tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ (+7% so với đầu năm so với mức 3,4% trong Q1/2021). Điều khiến chúng tôi chú ý là tốc độ tăng trưởng tín dụng cao chưa từng có tại các ngân hàng quốc doanh (+6,4% so với đầu năm), với động lực là các khoản cho vay ngắn hạn. CTG gần đạt hạn mức tín dụng được cấp ban đầu vào cuối tháng 3 (+9% so với đầu năm) với việc đẩy mạnh giải ngân cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong khi đó, các ngân hàng tư nhân có tốc độ tăng trưởng tín dụng cao (ngoại trừ HDB) có số dư trái phiếu doanh nghiệp tiếp tục mở rộng. Tại thời điểm cuối Q1/2022, số dư trái phiếu doanh nghiệp lớn nhất là ở các ngân hàng TCB, MBB, VPB, TPB và SHB.
• NIM tăng nhẹ so với quý trước do các ngân hàng tiếp tục nâng LDR thuần lên 93% (so với mức 90% vào cuối năm 2021). Các ngân hàng quốc doanh còn được hưởng lợi từ sự gia tăng đáng kể của tiền gửi có kỳ hạn từ KBNN (tăng 66 nghìn tỷ đồng so với đầu năm) và CASA cải thiện (khoảng 60 bps so với quý trước tại BID và VCB). Việc tăng CASA có thể là kết quả ban đầu của các chương trình miễn phí chuyển khoản bắt đầu từ năm 2022 tại các ngân hàng quốc doanh. Với tốc độ tăng trưởng tín dụng mạnh và tỷ lệ NIM ổn định, thu nhập lãi thuần (NII) tăng 19% so với cùng kỳ. STB là một ngoại lệ với NII giảm 9% so với cùng kỳ, do ngân hàng đẩy mạnh việc thoái lãi dự thu tồn đọng.
• Thu nhập phí thuần (NFI) tăng trưởng mạnh ở nhóm ngân hàng tư nhân (+37% so với cùng kỳ) nhưng thu hẹp ở nhóm ngân hàng quốc doanh (-16,5% so với cùng kỳ). Điều này phù hợp với ước tính của chúng tôi, vì các ngân hàng quốc doanh đã chọn cách hy sinh một phần thu nhập phí để đổi lấy việc mở rộng CASA, giảm chi phí vốn. Trong khi đó, thu nhập từ dịch vụ thanh toán và bancassurance vẫn tăng mạnh ở hầu hết các ngân hàng tư nhân. Thu nhập liên quan đến hoạt động kinh doanh trái phiếu doanh nghiệp chưa bị ảnh hưởng trong Q1/2022.
• Thu nhập ròng ngoài lãi (non-NII) nhìn chung yếu ngoại trừ giao dịch ngoại hối tại các ngân hàng quốc doanh và tư nhân lớn, và thu từ nợ xấu đã xử lý tại ACB, CTG, STB và VPB. Lãi từ chứng khoán đầu tư khá ảm đạm trong toàn ngành, ngoại trừ MBB. CTG và TCB thậm chí còn ghi nhận lỗ ròng chứng khoán đầu tư do trích lập dự phòng giảm giá đối với danh mục trái phiếu chính phủ. Tuy nhiên, số dư dự phòng này dự kiến sẽ được hoàn nhập trong Q2/2022, do Thông tư 24/2022 mới đây không yêu cầu các doanh nghiệp phải trích lập dự phòng giảm cho trái phiếu chính phủ từ ngày 25/5/2022.
• Áp lực trích lập dự phòng vẫn ở mức cao, ngoại trừ ACB và TCB. Tỷ lệ nợ xấu tại hầu hết các ngân hàng xấu đi trong Q1/2022, nguyên nhân một phần là do việc phân loại lại các khoản nợ tái cơ cấu thành nợ Nhóm 4 hoặc 5 sau khi hết thời hạn tái cơ cấu. Dư nợ tái cơ cấu do đó đã giảm ở hầu hết các ngân hàng mà chúng tôi có thông tin. Tỷ lệ nợ Nhóm 2 tăng tương đối mạnh, ngoại trừ tại ACB, HDB, MSB và TCB. Nhìn chung, chúng tôi cho rằng chất lượng tài sản trong Q1/2022 ở các ngân hàng thuộc phạm vi nghiên cứu chưa phải là vấn đề đáng lo ngại nhưng áp lực trích lập dự phòng vẫn ở mức cao (+18% so với cùng kỳ).
Nguồn: SSI